Phong trào ấy đang phát triển rất sâu rộng ở Trung Quốc. Hàng vạn cán bộ cao cấp và trung cấp đã xung phong về nông thôn hoặc lên miền núi tham gia lao động. Thí dụ:

Mệt mỏi là biểu hiện não bộ tự nghỉ ngơi để giảm căng thẳng tích tụ​

Nhóm nghiên cứu đã yêu cầu 40 người thực hiện các nhiệm vụ ghi nhớ khi nằm trong máy quét MRS. Chúng bao gồm việc xem chuỗi số xuất hiện trên màn hình và cho biết liệu số hiện tại có giống với số trước đó hay không. Có 26 trong tổng 40 người tham gia làm một phiên bản khó hơn của nhiệm vụ này, trong khi 14 người còn lại được giao một nhiệm vụ dễ dàng hơn.

Sau khi hoàn thành các nhiệm vụ ghi nhớ trong 6 giờ, những người làm việc khó hơn đã tăng mức glutamate trong vỏ não trước trán bên so với khi bắt đầu thử nghiệm. Ở những người làm nhiệm vụ dễ dàng hơn, các cấp độ vẫn giữ nguyên. Trên tất cả những người tham gia, không có sự gia tăng trong bảy chất hóa học não khác đã được đo lường.

Công việc liên quan đến suy nghĩ nhiều đòi hỏi não bộ phải liên tục chống lại sự cám dỗ để làm một điều gì đó ít đòi hỏi hơn. Không ngạc nhiên khi điều này có thể khiến mọi người cảm thấy mệt mỏi nhưng chất hóa học đó chưa rõ ràng.

Giờ đây, các nhà nghiên cứu cho rằng việc kiểm soát nhận thức có thể dẫn đến sự tích tụ của glutamate trong não, trong đó hàm lượng cao có thể gây hại vì nó kích thích quá mức các tế bào thần kinh.

Trong số những người tham gia làm những công việc khó hơn, mức glutamate của họ tăng lên cùng với sự giãn nở của đồng tử trong mắt, một thước đo rõ nét khác về sự mệt mỏi. Những người làm công việc đơn giản hơn cho biết họ cảm thấy mệt mỏi nhưng lượng glutamate không tăng hoặc đồng tử giãn.

Các nhà nghiên cứu cho rằng sự mệt mỏi về tinh thần có thể liên quan đến việc tái chế glutamate tích tụ trong quá trình hoạt động thần kinh. Wiehler cho biết:

Khi những người tham gia được yêu cầu báo cáo mức độ mệt mỏi của họ, nhóm nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ nào giữa glutamate và sự mệt mỏi. Các nhóm thực hiện các nhiệm vụ khó và dễ đều ghi nhận mức độ mệt mỏi như nhau. Các nhà nghiên cứu cho biết điều này có thể là do chủ quan mệt mỏi và những người làm nhiệm vụ dễ dàng không nhận thức được khó khăn của nhiệm vụ kia.

Tiến sĩ Anna Kuppuswamy từ Viện Thần kinh học tại Đại học London, người không tham gia vào nghiên cứu cho biết:

Các nhà nghiên cứu chỉ theo dõi glutamate nhưng cho thấy các chất liên quan khác có thể liên quan đến mệt mỏi. Kuppuswamy cho biết: “Nghiên cứu đo lường một chất dẫn truyền thần kinh duy nhất trong một phần rất cụ thể của não, vì vậy chúng tôi phải xem xét nó trên phạm vi toàn cầu hơn”.

Nhưng kết quả thật đáng khích lệ. Cô chia sẻ thêm:

Các nhà nghiên cứu cũng đang tìm hiểu xem liệu sự mệt mỏi về tinh thần có ảnh hưởng đến việc ra quyết định hay không. Họ đã làm điều này bằng cách xen kẽ nhiệm vụ ghi nhớ với các bài tập khác nhau, chẳng hạn như bài tập mà mọi người chọn giữa việc nhận một khoản tiền ngay lập tức hoặc một bài khác sau đó.

Khi những người tham gia thực hiện các nhiệm vụ khó hơn cảm thấy mệt mỏi, họ chuyển sang các lựa chọn có phần thưởng nhỏ ngay lập tức. Đây có thể là một ví dụ về việc chúng ta tránh các nhiệm vụ trí óc khó khăn, chẳng hạn như tính toán để ngăn chặn sự tích tụ quá mức glutamate có thể gây hại.

Nghiên cứu đem tới cho chúng ta những gợi ý quan trọng để hoạt động và làm việc trí óc phù hợp, tránh ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần do căng thẳng quá mức.

Người lao động trí óc là nhóm nhân viên có mức lương trung bình cao hơn, làm công việc có tay nghề cao, nhưng không phải lao động thủ công.

Hình minh họa (Nguồn: Pinterest)

Người lao động trí óc trong tiếng Anh gọi là: White-collar worker.

Người lao động trí óc thuộc nhóm nhân viên được biết đến với mức lương trung bình cao hơn, và làm công việc có tay nghề cao, nhưng không phải lao động thủ công. Người lao động trí óc vốn gắn với hình ảnh "áo sơ mi và cà vạt", làm các công việc văn phòng và quản lí, và không "làm bẩn tay". (Theo Investopedia)

Người lao động trí óc chủ yếu làm việc bằng đầu óc chứ không nặng về cơ bắp như lao động chân tay, họ có điều kiện để tiếp cận với văn hoá, công nghệ và tri thức nhân loại nên họ có điều kiện sáng tạo; họ đòi hỏi phải có sự dân chủ và bình đẳng cao trong xã hội; họ xem nhẹ nhưng vẫn dễ dàng cảm thông với lao động chân tay.

Lao động của người lao động trí óc chủ yếu bằng thông tin nghề nghiệp, nên họ dễ có những tư tưởng chấp nhận các suy nghĩ mới. Họ dễ bị chi phối bởi người có trí tuệ cao hơn họ.

Một số người, nhất là những người trẻ tuổi thường sống rất thực dụng, ít gắn bó với nơi công tác của mình, dễ thay đổi công việc, thích làm việc ở những nơi có điều kiện tốt và có thu nhập cao.

Động cơ làm việc của lao động trí óc

Người lao động trí óc cũng giống như người khác, họ làm việc trước hết vì nhu cầu thu nhập kinh tế, để tạo dựng cho bản thân và gia đình một cuộc sống vật chất và tiện nghi cao.

Người lao động trí óc còn làm việc vì tâm huyết nghề nghiệp, vì sở thích chuyên môn mà họ đeo đuổi và vì các khát vọng tìm tòi sáng tạo để đóng góp cao cho cộng đồng, cho doanh nghiệp.

Người lao động trí óc còn làm việc vì danh tiếng cá nhân, doanh nghiệp; vì trật tự, kỉ cương nơi công tác và vì mong muốn được phát triển và thành đạt.

Người lao động trí óc còn làm việc vì thói quen quán tính, đó là những con người bình thường, họ thấy mọi người làm như thế nào thì mình cũng phải làm thế để nuôi sống gia đình.

Cũng có một số người lao động trí óc trong những giai đoạn nào đó của cuộc đời, họ làm việc chỉ vì cạnh tranh để mà tồn tại. Họ sẵn sàng công phá, kìm hãm những người khác.

- Động cơ lương tâm, trách nhiệm

Có những người lao động trí óc chân chính làm việc vì động cơ tiến bộ và mưu cầu hạnh phúc chung cho nhân loại; họ làm việc với một tầm nhìn sâu sắc và một bản chất nhân đạo cao.

Nhìn chung người lao động trí óc làm việc vì cả một tổ hợp rất nhiều động cơ khác nhau đã nêu.

Người lao động trí óc là một tầng lớp dân cư quan trọng của mỗi xã hội; họ gắn bó với cuộc sống của dân tộc và họ chịu tác động to lớn của sự hưng thịnh chung của xã hội, của các đặc điểm truyền thống của dân tộc mà các nhà quản lí kinh tế phải coi trọng và tận dụng.

Tương ứng với các đặc điểm tâm lí và động cơ làm việc nói trên, để quản lí người lao động trí óc cũng phải sử dụng tổng hợp các phương pháp quản lí kinh tế, hành chính, giáo dục, vận động; nhưng phải tuỳ điều kiện cụ thể của từng đối tượng mà lựa chọn hình thức thực hiện.

(Tài liệu tham khảo: Tâm lí học lãnh đạo và quản lí, PGS.TS. Đỗ Thị Hải Hà, Cục Phát triển Doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2012)